- Câu hỏi thú vị này được Quang - một "đầu  nậu" có tiếng về cung ứng sản vật rừng đặt ra khi mời chúng tôi nhâm nhi  món thịt... chuột rừng. Hơn 25 năm lăn lộn ở Tây Nguyên, từng sinh sống  chung với đồng bào các dân tộc, Quang quả quyết rằng chưa bao giờ thấy  con mèo hiện diện trong gia đình của những tộc người từng có những chiến  binh săn voi thiện chiến.
Gọi điện thoại cho Ka Mát, người Cơ Ho, cán bộ Phòng Văn hóa Thông tin  Đạ Huoai, Lâm Đồng, anh cũng tỏ ra ngạc nhiên trước câu hỏi trên. Theo  anh, người Tây Nguyên rất yêu những con vật nuôi và cả thú hoang trong  rừng. Họ có cả một "bộ quy tắc ứng xử" về kiêng kỵ như khi vào rừng gặp  hổ, lợn rừng, gấu, rắn... thì nên làm gì, tiếp tục đi hay quay về. Nhưng  trong cả "vườn thú" ấy không thấy nhắc đến loài mèo.
 
 Chúng tôi  lang thang vào các nhà mồ Tây Nguyên để thử tìm hình bóng loài tiểu hổ.  Nhà mồ Tây Nguyên có một vị trí quan trọng trong đời sống tâm linh,  những gì có ở nhà mồ không chỉ dành cho người đã chết mà còn là niềm tin  cho người đang sống. Người Ba Na, Gia Rai tin rằng, linh hồn người chết  sẽ biến hóa những thứ để trong nhà mồ sẽ có thêm nhiều hơn nữa, như  tượng các con vật nuôi, những dao rựa, cung nỏ săn bắn... tức phù hộ cho  người sống gặp may mắn khi nuôi súc vật, đi rừng hay săn bắn.
 
 Người Ba Na tiến hành lễ bỏ mả vào mùa khô, từ tháng chạp đến tháng tư  năm sau. Lễ bỏ mả chứng tỏ người sống đã có thể cắt đứt mọi quan hệ tình  thân với người chết sau mấy năm chịu tang. Trước khi làm lễ, người Ba  Na làm một căn nhà mồ mới sau khi dỡ bỏ cái cũ. Mọi người vừa dựng nhà  vừa đánh cồng chiêng vui chơi suốt đêm, có khi kéo dài đến mấy ngày. Khi  làm xong nhà mồ, gia đình đem rượu thịt vào nhà mồ để cúng, nhằm mong  người chết đừng về quấy rầy người sống.
 
 Nhà mồ của người Gia  Rai và người Ba Na thường có những bức tượng khỉ (con người thời đầu),  tượng nam khoe dương vật, nữ khoe âm vật, nam nữ giao phối, tượng người  đánh trống, tượng nữ thần gác thế giới ma, tượng người ngồi khóc... Nhà  mồ Cơ Tu thường chạm đôi gà vươn cổ sang hai bên, bốn góc mái có thể là  bốn đầu con chồn, chó hay một động vật nào đó. Những hình tượng được tạc  lên tượng nhà mồ mang ước muốn là những thứ đó sẽ theo hầu hạ người  chết ở thế giới bên kia. Trong số này, tuyệt nhiên không thấy hình tượng  con mèo.
 
 Ngoài thế giới người chết, sử thi hay trường ca là báu vật sống của Tây  Nguyên, ẩn chứa trong tiếng vọng từ tâm thức của đồng bào buổi sơ khai,  khẳng định dấu ấn lịch sử của một dân tộc đã tồn sinh, chiến đấu như  thế nào.
 
 Trong hàng trăm sử thi nổi tiếng của người Mơ Nông (Ot  Nrông), Gia Rai (Hơ Ri), Ba Na (Hơ Môn), Ê Đê (Pô Khan) như Đăm San,  Xing Nhã, Kông con Lông, Lấy hoa bạc, hoa đồng, Lêng, Kong, Mbong lấy  ché vôi trắng, Tiăng lấy ché rlung chim phượng hoàng ở bon Kla... không  hề thấy nhắc đến loài mèo từ mô tả cảnh vật đến hình thức ngoa dụ. Trong  các lễ hiến sinh (giết trâu) cúng thần linh và người quá cố, lễ cúng  hòn đá bếp (vì thần đã giúp gia chủ một năm no đủ), lễ cúng hòn đá cổng  buôn làng (vì thần đã gìn giữ buôn làng một năm yên ổn, không có ai đói  nghèo, bệnh tật) và cúng sức khỏe cho những con vật nuôi trong gia đình  (như voi, trâu, bò, heo, chó, dê, gà) vì những con vật này là người bạn  của con người, cũng đều không thấy "mèo" xuất hiện.
 
 Đơn giản vì không có chuột?
 
 Vấn đề này khiến ta phải xét lại thiên chức của loài mèo để tìm ra câu  trả lời. Từ xưa, người miền xuôi nuôi mèo không phải để lấy thịt làm đặc  sản như hiện nay. Mà là một loại "thiên địch" với chuột - thứ chuyên  phá hoại mùa màng. Kho chứa lúa ở nông thôn của người Kinh thường đặt  sát dưới đất, trong buồng tối om, dễ tạo điều kiện cho loài chuột trú  ngụ, hùng cứ, vừa phá hoại tài sản, vừa gây dịch bệnh nguy hiểm.
 
 Vì ghét chuột nên những thành ngữ của người Kinh về loài chuột thường  mang nghĩa xấu, ví chúng như một giống người đáng ghét, như "Chuột sa  chĩnh gạo", "Cháy nhà ra mặt chuột", "Chuột chù húp nước giấm"... và  phải sử dụng mèo như một phương thức chống chuột hiệu quả nhất. Trong  khi đó, người miền núi trỉa lúa trên nương rẫy, các kho lúa đều làm kiểu  nhà sàn, chỉ có các chân cọc chạm đất, vách phên rất kín. Phía dưới sàn  là chỗ ở của các loài vật khác như trâu, heo, gà... nên chuột không có  đất ở, không thể leo lên sàn mà vào kho được. Vì thế, nếu nuôi mèo để  bắt chuột thì chỉ có... đói.
 
 Theo như lời Quang, chuột rừng là  đặc sản của người dân tộc Tây Nguyên, thịt vừa mềm vừa thơm, nướng rất  hấp dẫn, là món khoái khẩu nên những người đàn ông Tây Nguyên rất thích.  Họ săn chuột bằng bắn nỏ rất chính xác, bằng bẫy cò ke... Các rẫy lúa,  sắn, ngô, bí đỏ của họ trồng sâu tuốt trong rừng mà ít khi bị chuột phá  hoại vì mới xuất hiện là đã bị "xử" rồi. Đối với người Cơ Tu, trước Tết  họ mang theo sắn khô lên rừng, chọn những vị trí thuận tiện để vãi xuống  mặt đất nhằm thu hút chuột kéo về ăn ngày càng nhiều và béo mập, sau đó  mang bẫy kẹp lên để gài bẫy bắt chuột về dự trữ ăn Tết. Chuột mang về,  phụ nữ Cơ Tu đốt lửa để thui làm lông, rửa sạch và đặt trong cái nia nhỏ  xông trên giàn bếp cho khô dần để chế biến các món ăn trong ngày Tết  hoặc đãi khách quý.
| Cũng  có quan điểm cho rằng người Tây Nguyên không nuôi mèo, không ăn thịt  mèo là kiêng kỵ, giống như như người Mường kiêng không ăn thịt rùa, vì  rùa là nhân vật thần linh "đẻ đất đẻ nước", người Mường họ Đinh không  đánh, chửi mắng và ăn thịt chó để tạ ơn từng dùng sữa nuôi sống người  trong dòng họ... | 
Thiên Tường 
 
Bình luận
Chưa có bình luận nào!
Phản hồi
Bình luận từ Facebook